Tiêu chảy ở ngựa con
Tiêu chảy được định nghĩa là số lần đi phân tăng lên cùng với hàm lượng nước trong phân tăng lên so với bình thường. Ngựa con bị tiêu chảy thường sẽ bị viêm ruột, và có liên quan đến hội chứng phản ứng viêm toàn thân (SIRS).
Hơn 50% ngựa con bị tiêu chảy 1 lần hoặc nhiều hơn trong 6 tháng đầu đời. Các nghiên cứu cho thấy một số các nguyên nhân truyền nhiễm và không truyền nhiễm của bệnh tiêu chảy ở ngựa con như Rotavirus Salmonella spp., Clostridium perfingens typa A và C, tiêu chảy do ngựa mẹ lên giống lại dẫn đến thay đổi thành phần trong sữa mẹ, etc,.
Điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng và các biện pháp hỗ trợ nhưng sẽ có sẵn một số phương pháp điều trị cụ thể cho từng nguyên nhân khác nhau nếu xác định chính xác được vấn đề.

Nguyên nhân
Các nguyên nhân không do nhiễm trùng bao gồm tiêu chảy do ngựa mẹ lên giống lại, hội chứng ngạt trong chu kỳ sinh, viêm ruột hoại tử (NEC), chế độ ăn uống mất cân bằng, hội chứng loét dạ dày ở ngựa, tiêu chảy do ruột kích thích và không dung nạp lactose thứ phát.
Các tác nhân lây nhiễm phổ biến nhất bao gồm rotavirus (RV), Clostridium perfringens loại A và C, Salmonella spp, C difficile, Cryptosporidia và L intracellularis. Các nguyên nhân ít phổ biến hơn là do Coronavirus, Rhodococcus Equi và Strongyloides westeri. Các báo cáo trường hợp đơn lẻ cũng đã được công bố trên Aeromona hydrophyla, Neorickettsia risticii, candida và Listeria monocytogenes. Đồng nhiễm có thể xảy ra, như với C perfringens và C difficile.
- Rotavirus
RVs hiện là tác nhân truyền nhiễm được phát hiện thường xuyên nhất ở ngựa con bị tiêu chảy. Trong một nghiên cứu sử dụng PCR, RV là nguyên nhân của 35% đến 90% các trường hợp ở ngựa đến 3 tháng tuổi.
RV thuộc họ Reoviridae, phân họ Sedoreovirinae, chi Rotavirus. Chỉ có nhóm A có liên quan đến ngựa.
RV có xu hướng gây bùng phát, phân bố khắp nơi trong quần thể ngựa, rất dễ lây lan, nhân rộng nhanh chóng và được thải ra với nồng độ cao trong phân của những con vật bị ảnh hưởng.
Sự lây truyền qua đường miệng hoặc vật truyền lây có nhiễm bệnh.
Thời gian ủ bệnh từ 1 ngày đến 4 ngày. Sự phát tán vi rút có thể bắt đầu trước khi bắt đầu tiêu chảy, tồn tại trong giai đoạn lâm sàng và có thể tồn tại đến 12 ngày sau khi tiêu chảy.
Ngựa con bị tiêu chảy do RV được đưa đến bệnh viện có tỷ lệ sống sót lên đến 94%.
Tiêu chảy do RV chủ yếu do cơ thể kém hấp thu nhưng cũng bao gồm bài tiết do ảnh hưởng của độc tố . Nó được ưu tiên lây nhiễm vào các tế bào ruột non có khả năng hấp thụ của tá tràng, không tràng, và các ngăn của hồi tràng, gây ra tổn thương nhung mao dẫn đến tiêu chảy kém hấp thu. Ngựa con thường trở nên không dung nạp lactose vì enzyme lactase chủ yếu được tạo ra bởi biểu mô lông nhung của tế bào ruột.
RV không cấu trúc glycoprotein 4 (NSP4) là một độc tố tác động lên ruột của virus, chịu trách nhiệm về thành phần tăng tiết của bệnh tiêu chảy do RV.
- Clostridium perfingen
C perfringens là một loại vi khuẩn tạo bào tử kỵ khí gram dương, có liên quan đến bệnh viêm ruột ở ngựa con và ngựa trưởng thành.
C perfringens từ lâu đã được coi là một phần của hệ vi sinh vật bình thường có trong ruột ngựa, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ sự hiện diện thấp của nhóm này (0% –8%) trong phân của ngựa.
Ở ngựa con sơ sinh, C perfringens được phân lập từ phân của 90% ngựa con 3 ngày tuổi nhưng tỷ lệ này sẽ giảm trong những tuần đầu đời. Kiểu gen phổ biến nhất được xác định (85%) là kiểu A; C perfringens kiểu C được tìm thấy ít hơn từ 1% đến 3% ở ngựa con sơ sinh.
Trong một nghiên cứu trước, C perfringens là sinh vật nguyên nhân gây tiêu chảy đứng thứ hai được phân lập từ ngựa con bị tiêu chảy. Trong một số trường hợp, C perfringens có thể gây đột tử mà không có biểu hiện lâm sàng trước.
Tiêu chảy ở ngựa liên quan đến C perfringens thường xảy ra sớm trong vòng đời; 96% ngựa con bị ảnh hưởng đã có miễn dịch mẹ truyền. Ngựa con dưới 1 tháng tuổi bị tiêu chảy có khả năng dương tính với C perfringens cao hơn đáng kể (tỷ lệ chênh lệch [OR] 15; 95% CI, 3,5–66) so với những con lớn hơn.
Tỷ lệ tử vong được báo cáo thay đổi từ 12% đến 83%. Tỷ lệ tử vong cao nhất đã được báo cáo do nhiễm C perfringens loại C. C perfringens loại A tạo ra độc tố a; loại B tạo ra độc tố a, b, và ε; loại C tạo ra độc tố a và b; loại D tạo ra độc tố a và ε; và loại E tạo ra độc tố a và i.
Các yếu tố độc lực bổ sung bao gồm độc tố b2, là một loại độc tố ruột được tạo ra bởi tất cả các loài C perfringens nhưng phổ biến nhất là loại A.
Gần đây, một loại độc tố bổ sung có tên netF đã được xác định ở ngựa con bị viêm ruột hoại tử và độc tính tế bào đã được chứng minh trong lab. Vai trò của các yếu tố độc lực bổ sung này trong cơ chế bệnh sinh của bệnh tiêu chảy vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
- Tác nhân không lây nhiễm
Viêm ruột hoại tử NEC là một bệnh chủ yếu ở ngựa sinh non và bao gồm tổn thương hoại tử ở các lớp niêm mạc và dưới niêm mạc của đường tiêu hóa. Hồi tràng và manh tràng thường bị ảnh hưởng nhất.
Những con ngựa này có biểu hiện yếu nghiêm trọng, không đứng vững được, đau bụng, tắc ruột, trào ngược dạ dày, không dung nạp thức ăn qua đường ruột, các dấu hiệu sốc và dấu hiệu của bệnh tràn dịch ruột ở đại tràng. Tổn thương đường tiêu hóa do thiếu oxy bởi Hội chứng ngạt sau sinh ở ngựa con có thể gây ra tổn thương do thiếu máu cục bộ cho các cơ quan khác nhau, chẳng hạn như đường tiêu hóa, thận, tim và não.
Hội chứng loét dạ dày ở ngựa đực từ 2 ngày tuổi đến 9 tháng tuổi và có liên quan đến tiêu chảy. Tiêu chảy do không dung nạp lactose thường hiếm gặp. Không dung nạp lactose thứ phát do viêm ruột non liên quan đến RV và C difficile cũng đã được ghi nhận trong một số nghiên cứu. Không dung nạp thức ăn ở ngựa con có thể gây ra tiêu chảy. Nó thường được nhìn thấy nhiều hơn ở ngựa con được cho ăn các khẩu phần thay thế sữa mẹ.
BSTY Nguyễn Ngọc Luân
Australia
Tham khảo:
1. Oliver-Espinosa, O. (2018). Foal Diarrhea. Veterinary Clinics of North America: Equine Practice, 34(1), 55–68. doi:10.1016/j.cveq.2017.11.003